Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Hàn thi ngoại truyện
luỹ khúc 壘麴
dt. đc. tức khúc luỹ 麴壘 (luỹ là bờ tường đắp cao, khúc là bã rượu) trỏ bờ luỹ đắp bằng bã rượu. Hàn thi ngoại truyện ghi: “Vua Kiệt làm ao rượu đê bã, thả sức vui chơi, một hồi trống mà có đến ba ngàn người vục uống như trâu. Quần thần đều vịn vào nhau mà hát.” (桀為酒池糟堤,縱靡靡之樂 ,一鼓而牛飲者三千.群臣皆相持而歌). Lý Xứ Quyền đời Tống có câu: “té bọt trong ao vốn đã ưa, luỹ men gò bã vẫn chưa bưa. Một chén một chén lại một chén, thân - thế đều quên, vui đã chưa!” (拍浮池中固不惡,麴壘糟丘仍不薄. 一杯一杯复一杯,身世兼忘乃真樂 phách phù trì trung cố bất ác, cúc luỹ tao khwu nhưng bất bạc. Nhất bôi nhất bôi phục nhất bôi, thân thế kiêm vong nãi chân lạc). Miệng khiến tửu binh pha luỹ khúc, mình làm thi tướng đánh đàn tao. (Tự thán 89.3).
Vệ công 衛公
dt. tức Vệ Ý Công 衛懿公, tên là Xích, vua đời thứ mười tám của nước Vệ, trị ngôi từ năm 668 - 660, con của Vệ Huệ Công. Hàn thi ngoại truyện ghi: “Thời Vệ Ý Công,… rợ địch phát binh đánh vệ. Ý Công muốn đem binh đi đánh trả. Dân trong nước đều nói: ‘vua chỉ quý hạc, chỉ ban lộc vị cho hạc; lại chỉ biết yêu cung nhân, hãy sai hạc với cung nhân đi mà đánh, bọn ta làm sao có thể đánh trận được?’ bèn bỏ đi hết. Rợ địch đến, đánh rồi giết Ý Công.” Ngẫm hay sự thế nhẹ bằng lông, ăn uống chăng nài bổng Vệ công. (Lão hạc 248.2).